Pulau Bidong với cảnh “mồ xiêu mả lạc”

Trường trình: Quảng Yên Nguyễn Công Bằng
Hình ảnh: Tập thể VBTD10

Không kể số lượng người di tản vào thời điểm trước và sau biến cố 30/4/1975, tài liệu của Cao Uỷ ghi nhận có 849.228 người bỏ nước vượt thoát chế độ Cộng sản đã đến các trại tỵ nạn ở 9 nước trong vùng Đông Nam Á. Không ai biết chính xác bao nhiêu ngàn người đã bỏ mình trên đường tìm tự do xuyên qua biển Đông Việt Nam hay các vùng rừng núi Campuchia. Sự hy sinh của những thuyền nhân xấu số đang bị phai nhòa theo thời gian nhưng chắc chắn lịch sử đã ghi nhận mất mát to lớn đó như là một minh chứng hùng hồn nhất cho giá trị của hai chữ TỰ DO ở cuối thế kỷ 20.

Trong hơn ba thập niên qua, nhiều cuốn sách, đoạn phim, câu chuyện đã thể hiện phần nào bao thảm cảnh xảy ra đối với người vượt biển, vượt biên… song lịch sử nhân loại sẽ không thể nào ghi lại hết được những khổ đau, mất mát kinh khiếp đã diễn ra trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Chỉ riêng tại Mã Lai Á và Nam Dương, hàng ngàn xác người bất hạnh bỏ mình khi tàu đến bờ biển và bị giông gió đánh chìm, hay bị tử vong khi tàu bị kéo ra biển khơi. Tại Mã Lai Á, vì lý do phong tục và tôn giáo, xác của các thuyền nhân xấu số đã được vớt lên và mai táng chung trong các nghĩa trang người Hoa ở địa phương. Trong đó có rất nhiều ngôi mộ tập thể.

(Từ trái) Mộ tập thể chôn 139 thuyền nhân (MT065), và mộ tập thể chôn 137 thuyền nhân (MT065)

Hai ngôi mộ tập thể lớn nhất ở tiểu bang Terengganu (Mã Lai Á) chôn tổng cộng 276 xác thuyền nhân. Một đặc điểm cần ghi nhận là mộ tập thể từ vài ba người lên đến 139 người (mộ tập thể Cherang Ruku, tiểu bang Kelantan) chỉ có thể tìm thấy tại Mã Lai Á. Tại Phi Luật Tân, Nam Dương và Thái Lan, người ta không tìm thấy dấu vết của bất cứ một ngôi mộ tập thể nào; song điều đó không có nghĩa là không có nhiều người chết trong cùng một vụ đắm tàu.

Hình ảnh một số trong hàng ngàn ngôi mộ đang bị hư hoại

Trên một số hòn đảo từng là bến bờ tự do như đảo Bidong hay quần đảo Anambas... hàng ngàn người bất hạnh khác đã gửi xương cốt vĩnh viễn. Do không có người chăm sóc hàng năm, các nghĩa trang trở nên hoang tàn, nhiều tấm bia đơn sơ đã bị đổ nát, phần lớn các ngôi mộ đấp đất sơ sài đã bị mưa gió soi mòn sau nhiều năm không được chăm sóc.

Trước cảnh tượng đau lòng này, kể từ năm 2005, Văn khố Thuyền Nhân Việt Nam (VKTNVN) cố gắng vận động sự yểm trợ của đồng hương khắp nơi để trùng tu mộ phần thuyền nhân trong các nghĩa trang trên đất liền tại Malaysia.

Một số các nghĩa trang đã được VKTNVN trùng tu trong đất liền Malaysia.

Sau 6 năm với nhiều cố gắng vượt bực và sự đóng góp của đồng bào hải ngoại, chương trình đã trùng tu, lập bia cho hơn 500 mộ trên đất liền (nơi mai táng tổng cộng hơn 1.000 thuyền nhân xấu số). Chương trình cũng đã tìm kiếm được hàng ngàn ngôi mộ khác ở Nam Dương, Mã Lai Á, Phi Luật Tân, v.v...

Theo dự trù, trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2015, VKTNVN sẽ trùng tu lớn cho ngôi mộ tập thể 46 người ở Balai Bachok, và gây quỹ trùng tu nghĩa trang vùng Anambas (khoảng 300 mộ), ở đảo Bidong (khoảng 270 mộ), đảo Galang (503 mộ) và khu vực trại tỵ nạn Bataan ở Phi Luật Tân (khoảng 300 mộ). Năm 2015 sẽ trùng tu những mộ phần mới tìm thấy ở Thailand, Hong Kong hoặc những nơi chưa hoàn  tất kịp trước đó.

Trong chuyến "Về Bến Tự Do 10" được tổ chức từ ngày 12/5 - 2/6/2012, gần 40 cựu thuyền nhân đã có dịp trở lại đảo Galang và Bidong. Mục đích của chuyến đi là tạo điều kiện cho các thuyền nhân thăm viếng nơi chốn đặt những bước chân tự do đầu tiên sau hành trình vượt thoát chế độ CSVN; đồng thời nghiên cứu phương thức trùng tu ngôi mộ các thuyền nhân bất hạnh đã gửi xương cốt lại vĩnh viễn trên các hòn đảo hoang vắng.

Theo sự tổng hợp thông tin từ hồ sơ của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, Pulau Bidong là chốn tạm dung của hơn 242 ngàn người tỵ nạn từ năm 1978-1991; trong đó có 433 thuyền nhân đã từ trần và phần lớn được chôn tại đảo. Các ngôi mộ được tập trung ở bốn nghĩa trang ở Khu C, E, F và G.

Khác với mộ phần các thuyền nhân được chôn ở nghĩa trang Galang ở Nam Dương (là nơi được chăm sóc thường xuyên bởi chính quyền bản xứ) mộ phần thuyền nhân ở các nghĩa trang trên đảo Bidong đang đối diện với nguy cơ bị hư hoại nghiêm trọng (vì cho đến nay Bidong vẫn là một đảo không có người định cư).

Hiện tình các nghĩa trang ở Bidong vào tháng 5/2012 được ghi nhận như sau:

       - Nghĩa trang Khu C: Gồm 7 ngôi mộ đắp xi-măng, đã bị nứt nẻ nhiều và hư hoại nặng.

       - Nghĩa trang Khu G: Vừa được tìm thấy trên đồi (tại khu bồn nước khu G) gồm 86 mộ đắp bằng đất với đá tảng chất vòng chung quanh mỗi mộ.

       - Nghĩa trang Khu E: Gồm 15 mộ (do Liên đoàn Phật tử Khuôn Việt lập) được xây sơ sài bằng xi-măng, mai táng ở vùng đất trũng thấp, đang bị hư hoại nặng.

       - Nghĩa trang Khu F: Là nghĩa trang lớn nhất, gồm 159 mộ (theo nội dung ghi trên tấm bia bằng xi-măng), hầu hết chỉ có một tấm bia mộ đúc bằng xi măng và phần lớn đang trong tình trạng hư hoại nặng nề.

Nhìn chung, đại đa số các ngôi mộ đều đang trong tình trạng bị bể nứt, các bia bị nứt, gãy, đổ... toàn bộ mộ phần luôn bị cây rừng và cỏ dại mọc lấn tràn lên các mộ.

Nhu cầu trước mắt cho việc trùng tu ở nghĩa trang Galang là sửa chữa những ngôi mộ đã bị hư hoại, kể cả bia mộ. Do phần lớn mộ được xây bằng xi-măng, việc quét vôi lại toàn bộ để xóa bớt đi dấu vết tàn phá của thời gian cũng là một việc cần thực hiện - nếu như ngân quỹ cho phép. Hy vọng là các thuyền nhân từng ở Galang sẽ gây quỹ hoặc ủng hộ VKTNVN trùng tu khu nghĩa trang này.

Riêng ở đảo Bidong, nhu cầu lớn nhất là lập bia mộ (theo mẫu ở các nghĩa trang đã được VKTNVN trùng tu) để ghi lại thông tin chính xác của từng ngôi mộ; và tìm cách ngăn chận cây rừng, cỏ dại lấn phá các ngôi mộ trong lâu dài. Với hoàn cảnh không thể có điều kiện chăm sóc thường xuyên cho các nghĩa trang ở Bidong, việc trùng tu và có phương cách bảo vệ sự hư hoại bởi thiên nhiên là một thách thức lớn. Dự án này đòi hỏi một ngân sách hàng trăm ngàn mỹ kim, và sự đóng góp công sức của nhiều người. Với con số gần 250 ngàn người vốn đã từng tạm dung ở đảo này, việc góp sức chăm sóc cho hơn 200 ngôi mộ sẽ không phải là một trở ngại nếu như chương trình này nhận được sự quan tâm, ủng hộ của 10% cựu thuyền nhân Bidong.

Về cơ sở vật chất, tất cả đang bị hư hoại nặng nề và có lẽ không tồn tại được thêm bao lâu nữa nếu như không có được một kế hoạch trùng tu đúng mức.

Hiện nay, những khu cư trú ngày nào của 242 ngàn thuyền nhân hầu như đã bị hư hoại hoàn toàn và tất cả đều đã trở thành khu rừng với dầy đặc cây cỏ như chưa từng có người sinh sống qua ở đó.

Di tích còn nhìn thấy được là ở Khu Đồi Tôn Giáo. Cánh Buồm Tự Do là công trình còn đứng vững tương đối tốt nhất.

Tượng Ông Già Bidong, Nhà thờ Công giáo, Chùa Từ Bi, Văn phòng Cao Ủy ở Bidong (5/2012)

Tượng Ông Già Bidong, nơi tôn thờ cầu nguyện của hàng trăm ngàn người mỗi khi đi phỏng vấn hay hồ sơ định cư bị khó khăn, hiện đang sụp đổ. Mảnh lưng rớt ra. Tượng Ông Già và Cô Cháu Gái gẫy làm hai và rớt xuống vì khung sắt đã bị mục nát. Hai cơ sở đang trên đà sập đổ là Nhà Thờ Công Giáo và Chùa Từ Bi. Nhà thờ Tin Lành và Cao Đài đã bị sập và mất dấu hoàn toàn. Các căn nhà của Cao Ủy LHQ chỉ còn lại khung sườn và những mái che đã bị mất nhiều phần. Những ai đã từng một lần trở lại thăm viếng các nghĩa trang thuyền nhân đều không khỏi chạnh lòng và cảm thấy rõ ràng món nợ tình nghĩa chưa thanh thỏa xong với những người bạn đồng hành, đồng cảnh ngày nào.

Công trình mới nhất được xây dựng ở Bidong là cây cầu Jetty, do chính phủ Mã Lai xây dựng với ngân sách 1 triệu Mã kim (RM).

***

May mắn thoát khỏi chế độ độc tài Cộng sản chỉ là bước đầu. Đến được bến bờ tự do là may mắn kế tiếp. Có được đi định cư ở nước thứ ba hay không là một may mắn khác. Và trong quá trình đó, hàng trăm ngàn người bất hạnh đã bỏ mình trên đường vượt thoát hoặc chết tức tưởi ngay trước khi được có cái diễm phúc đặt chân lên bờ bến tự do.

Con số trên một triệu người tiếp tục liều chết tìm tự do trong suốt hai thập niên đã đánh thức lương tâm nhân loại, và trở thành yếu tố thúc đẩy sự thành hình các chương trình định cư nhân đạo dành cho những người có thân nhân ở nước ngoài (ODP), hay đã từng bị tù đày, ngược đãi (H.O.).

Lời tuyên bố của ông Trần Đông: "Quyết không để cho một ngôi mộ nào sẽ chịu cảnh mồ siêu mả lạc..." chứa đựng đầy ắp tâm huyết đáng trân trọng song cũng hứa hẹn nhiều thử thách. Với con số hàng ngàn ngôi mộ cần sửa chữa, hàng ngàn tấm bia cần được thành hình, hàng chục nghĩa trang cần được khai hoang, ngăn chận cây rừng, cỏ dại lấn che... thực tế chắc chắn không đơn giản chỉ đòi hỏi một quyết tâm của người chủ xướng. Chương trình trùng tu hàng ngàn mộ phần thuyền nhân còn lại ở Mã Lai Á, Nam Dương, Phi Luật Tân, Hồng Kông, Thái Lan... cần sự đóng góp nhiệt tình của nhiều nguời để có được một ngân sách khả thi cho dự án.

Một vài bài viết tả thực về hiện tình các nghĩa trang hoang tàn chắc chắn không thể nói lên hết được nhu cầu trùng tu cần có. Những lời kêu gọi dù có hay cách mấy cũng không thể thành hình được ngay ngân quỹ phải có cho dự án... Nguyện ước ý nghĩa này chỉ có thể trở thành hiện thực khi nhận được sự quan tâm, ủng hộ của nhiều người có lòng. Hy vọng sao sự đóng góp của nhiều người sẽ tạo đủ ngân quỹ để những thuyền nhân bất hạnh sớm thoát khỏi cảnh "mồ xiêu mả lạc".

Người viết thành khẩn cầu nguyện hương hồn những đồng bào xấu số đang gửi nắm xương tàn tại các nghĩa trang hoang vu hãy phò trợ cho nỗ lực của Văn khố Thuyền Nhân Việt Nam nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của những người hảo tâm ở khắp nơi, đặc biệt là những người đã từng là Thuyền Nhân hay là thân nhân của những nguời đã được may mắn định cư ở nước thứ ba bằng con đường vượt biển.

Xin cảm ơn ông Trần Đông cùng các đồng hương nhiệt tâm đã khởi xướng các chương trình về lại chốn xưa và tạo điều kiện cho những người hảo tâm có cơ hội chia sẻ phần nào với những người bạn vượt biển bất hạnh.

Kính mời đồng bào xem thêm thông tin ở mạng: www.vktnvn.com và ủng hộ cho các chương trình gây quỹ của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam.

Chân thành chia sẻ.

Tường trình tại Kulua Lumpur ngày 2/6/2012

Quảng Yên Nguyễn Công Bằng

Thuyền nhân Pulau Bidong (78-79)

 

Comments powered by CComment

Đóng góp qua PayPal

Xin vui lòng cung cấp địa chỉ email
và chương trình muốn trợ giúp.

 

Bài đọc nhiều

VDF' Activity Slideshow

Các Chị trong BTC Buổi Gây Quỹ "Cho Tuổi Thơ Niềm Hy Vọng" tổ chức ngày 11/01/2015 tại hội trường Đài VAN-TV 55.2 ở Houston (Texas)nhằm tạo ngân quỹ bảo trợ các chương trình dạy chữ cho hơn 500 trẻ em gia đình VN nghèo ở Cambodia.

The Interfaith Religious Leaders appease and ditribute gifts to Child Cancer Patients in Saigon. VDF was one of major contributors. Các chức sắc Tôn giáo phát quà cho các bệnh nhi ung bướu ở Chùa Liên Trì - Hình 1 Kể từ năm 2015, Câu lạc bộ Hoa-Mai (tiền thân của ViDan Foundation) đã phối hợp với HT Thích Không Tánh và hội Vietnam Compassion (ở Pháp) để phát quà (mỗi năm 2-3 lần) cho các trẻ em bị bệnh ung bướu, và TPB-VNCH.

The Interfaith Religious Leaders appease and ditribute gifts to Child Cancer Patients in Saigon. VDF was one of the major contributors. Các chức sắc Tôn giáo phát quà cho các bệnh nhi ung bướu ở Chùa Liên Trì - Hình 2 Kể từ năm 2015, Câu lạc bộ Hoa-Mai (tiền thân của ViDan Foundation) đã phối hợp với HT Thích Không Tánh và hội Vietnam Compassion (ở Pháp) để phát quà (mỗi năm 2-3 lần) cho các trẻ em bị bệnh ung bướu, và TPB-VNCH.

Some members of the Fundraising Team at VAN-TV in Houston (Texas) on January 11, 2015 to support educational projects for needy children in Cambodia. Các chị trong Ban Tổ Chức trình diện cử tọa tham dự buổi gây quỹ "Cho Tuổi Thơ Niềm Hy Vọng" Kỳ 2.

Crossing Tonle Sap to visit Vietnamese floating villages in Pursat province (Cambodia) Cảnh đoàn MIRO và ông Nguyễn Công Bằng đi ghe máy vượt Biển Hồ thăm các làng nổi ở tỉnh Pursat

Cảnh học trò trường Samaki tan học về nhà bè

Christine Quỳnh và bà Bích Ngọc góp lời chia sẻ

Christine Quỳnh và Ô.B. Vũ Ban & Bích Ngọc VAN-TV

Cư sĩ Trần Hiến, Christine Quỳnh và Ô.B. Vũ Ban, Bích Ngọc yểm trợ quỹ bảo trợ giáo dục cho trẻ Việt ở Cambodia

Dù đang mang bệnh hiểm nghèo song các em cũng vui khi có quà

Trẻ đùa giởn trên cồn cát và dòng nước ô nhiễm, dơ bẩn khi không còn không gian nào khác hơn.

HT Thích Huyền Việt - người bảo trợ tinh thần cho ViDan Foundation trong nhiều năm qua.

HT Thích Huyền Việt góp lời kêu gọi đồng hương yểm trợ

Lớp Việt Ngữ ở xóm Bãi Cát Neak Loeung

Lớp Việt Ngữ ở xóm Cầu Đá

Một bé gái chơi đùa và cuối xuống uống nước dơ bẩn ở bờ Biển Hồ - một cảnh trạng bình thường ở đây khi hoàn toàn không có một nguồn nước sạch nào khác.

Category: Bài vở
 Lớp Anh Ngữ trong ngày làm quen với lớp (07-06/2013)

Sau một tuần nhận học sinh và khởi đầu chương trình làm quen với lớp học, tôi nhận thấy ngay được một số điểm đáng mừng, và nhiều điểm đáng lo từ những đứa trẻ đang chập những bước vào đường học chữ trong “Chương trình Lớp Học 3 Ngôn Ngữ cho Trẻ Em Nghèo ở Cambodia”.

Những điểm đáng mừng

Những gia đình các em có ý thức về tầm quan trọng của giáo dục, hay nói nôm na theo lời họ là sự ích lợi của “cái chữ”, đã sốt sắng đến ghi danh cho con đi học. Có gia đình cố gắng mua được một bộ quần áo mới cho con mình. Có người ráng dành dụm chút tiền cho con đem theo ăn sáng… Đặc biệt, những lời tri ân chân chất của người cha, người mẹ đối với Hội, dù chỉ mới đến ghi danh, đã là một động lực giúp cho anh em trong nhóm chủ trương cảm thấy ấm lòng mà cố gắng tiến hành công việc.

Điểm đáng mừng khác là qua uy tín cá nhân của người sáng lập (anh Y Deour – một người Khmer gốc Việt), cũng như qua quá trình sinh hoạt lâu dài của anh tại Cambodia, nên một chính khách (và cũng là một đại doanh nhân) của Cambodia đã khéo léo yểm trợ cho việc lập Hội, sắp xếp nơi mở lớp đầu tiên, và cũng là người giới thiệu một văn phòng Luật sư nổi tiếng đứng ra chăm sóc vấn đề pháp lý cho Hội.

Điểm mừng kế tiếp là có bốn người thuộc giới có uy tín, đang có vị trí trong chính quyền tỉnh Siem Reap, đã nhận lời cùng với anh Y Deour đứng trong Hội đồng Quản trị để xin giấy phép thành lập Hội. Sự hiện diện của những vị này là uy tín đầu tiên và quan trọng của Hội đối với chính quyền và người Cambodia.

Những điểm đáng lo

Do hầu hết các em xuất thân từ những gia đình nghèo khốn khó và cha mẹ cũng thuộc thành phần không có cái may mắn được đến trường, phần lớn các em biểu hiện khá rõ ràng sự ô nhiễm từ môi trường sinh sống tạp nhạp của gia đình, làng xóm. Do vậy, để chuẩn bị tâm lý cần thiết để các em có thể học hành hiệu quả, Hội cần phải mướn thêm một Thầy hoặc Cô có khả năng sinh hoạt giỏi với các các em để đưa các em dần vào khuôn khổ lớp học, có tinh thần kỷ luật tự giác cao hơn, và những thói quen tốt trong sinh hoạt học đường. Giải quyết nhu cầu này là thêm một trách nhiệm về lương bổng của tập thể giáo viên. Ít nhất là $100-150 USD/tháng.

Về thể chất, rất khó để tin là những em nhỏ này đã 6, 7 tuổi hoặc lớn hơn nữa. Người các em nhỏ choắt, tay chân khẳng khiu và thân thể biểu hiện khá rõ tình trạng thiếu dinh dưỡng. Điều ngạc nhiên là trong số những em học sinh bé nhỏ này, một số đã có kinh nghiệm mưu sinh giúp gia đình bằng nghề xin, lượm chai nhựa ở nhà hàng, trên đường phố, thùng rác… Một cảnh tượng xót xa gặp phải là khi một bọc bánh chips (bán rất rẻ tiền ở xứ này)  bị rớt tung tóe trên sàn lớp học đầy bụi cát, ba em cùng nhóm đã ngồi xuống lượm lên ăn ngon lành. Các em hoàn toàn không có ý niệm về vệ sinh cơ bản. Cái thèm, cái đói lấn át hết mọi thứ khác.

Về tư cách, chỉ khoảng phân nữa các em biểu hiện sự ngoan ngoãn tương đối. Phần còn lại nói năng như đang sinh hoạt ở một góc chợ, thậm chí còn chửi thề một cách rất tự nhiên. Điều an ủi là các Thầy/Cô không tỏ vẻ tức giận mà lại rất kiên nhẫn để khuyên bảo, dạy dỗ từng em. Có lẽ những Thầy Cô này lớn lên hay sống ở đây lâu năm nên đã hiểu được lý do tại sao các em lại như vậy, và cảm thương, dạy dỗ cho các em tốt hơn thay vì rầy la, phạt vạ…

Về sinh hoạt, gần phân nửa là không có ý thức về kỷ luật. Chỉ trong một giờ đồng hồ quan sát, đã thấy tới ba lần một nhóm nhỏ 4 em ngồi thụp xuống gầm bàn chơi say mê với một bộ bài nhỏ nhắn. Có 5, 7 em cứ bỏ lớp chạy vô chạy ra… Người Thầy Giáo nhắc nhở, nắm tay từng em trở lại vị trí một cách rất kiên nhẫn. Có nhiều lúc Thầy giáo đưa tay bồng cả học sinh bướng bỉnh đưa trở lại bàn học.

Cùng lúc đó, việc di chuyển các em đến lớp học cũng là một vấn đề.Phần lớn gia đình các em sống nhoi nhúc ở các khu lao động nghèo sau các khu chợ bình dân. Nhà những gia đình này, nếu muốn gọi là nhà, là những cái chòi được thành hình bằng sự ráp vá bởi nhiều mảnh tôle thiết, lá dừa, giấy carton, tấm ni-lông… với nhau.Từ các khu này đến địa điểm lớp học không xa lắm song tất nhiên không thể đi bộ được. Và nếu không có phương tiện di chuyển thì xem như việc các em đi học trở thành bất khả thi, vì cha mẹ các em không có xe cộ và cũng không có thời giờ để đưa đón các em. May mắn sao một người phụ nữ tương đối khá giả trong vùng đã có lòng nhân từ, nhận bảo trợ tiền mướn một chiếc xe “rờ-mọt” (vốn dùng để chở hàng bình dân) để chở các em ở khu vực trên đường đi Biển Hồ đến lớp vào buổi sáng và đón về vào buổi chiều. Phần các em ở khu vực sau chợ Sa-lơ thì đến giờ phút này vẫn do sự đích thân đưa đón bằng chiếc xe riêng của anh Y Deour. Cách thức này chi phối việc điều hành lớp khá nhiều và đã trở thành một nhu cầu quan trọng cần được người có lòng đứng ra bảo trợ. Muốn giải quyết nhu cầu này, Hội cần bảo trợ một ngân khoản tối thiểu là $100 USD mỗi tháng để mướn thêm một xe “rờ-mọt” đưa đón các em.

Nhu cầu to lớn và quan trọng không kém là giải quyết việc ăn trưa cho các em.Do các em ở xa, đi về buổi trưa và trở lại buổi chiều gần như là chuyện không thể làm được, việc cung cấp bữa ăn trưa đã bất chợt trở thành một vấn đề khẩn thiết. Gia đình các em không có khả năng lo tiền ăn trưa cho các em, và cũng không có điều kiện để đem cơm đến, hay đón các em về nhà ăn cơm Vì vậy, chị Deour đã tình nguyện mua thực phẩm và nấu ăn miễn phí cho các em, trong thời gian chờ đợi Hội tìm được mạnh thường quân đứng ra bảo trợ toàn phần (khoảng $480 USD/tháng cho 40 em), với tốn phí khoảng 55 xu cho một phần cơm. Nhìn các em ốm yếu, xanh xao đón những đĩa cơm có thịt cá đầy đủ và ăn ngon lành, ai thấy cũng không cầm được sự xúc động. Rất có thể là ở nhà, các em cũng khó có được những bữa ăn tương đối đầy đủ như vậy.

Một nhu cầu khó làm ngơ khác là giúp một bộ quần áo cho những em mà gia đình quá khốn khó, đến nỗi không có được một bồ độ lành lặn cho con mình đi học. Trước tình trạng này, Hội đã mua một số quần áo để tặng cho các em thuộc diện nghèo khổ quá mức. Cũng từ vấn đề này, một số anh em trong Hội đã bàn đến việc xin bảo trợ để tặng đồng phục cho các em trong tương lai. Mỗi bộ đồ vải thường may sẵn ở chợ giá khoảng $5 USD / bộ.

Vài biểu hiện đó thôi cũng cho thấy là các em có nhu cầu giáo dục rất nhiều chứ không phải chỉ là dạy cho biết chữ. Chúng ta sẽ rất khó trách cứ gia đình các em khi cha mẹ các em cũng ở trong tình trạng tương tự. Có thể nói, chính môi trường sống thiếu giáo dục đã làm mất đi bản chất hồn nhiên trong sạch của các em. Dạy cho các em thưa hỏi đúng cách với Thầy Cô, cách ngồi, cách đứng, cách nói, cách ăn, v.v… chỉ mới là bước đầu cơ bản.

Vì vậy, trách nhiệm giáo dục của Hội nặng hơn rất nhiều, và rõ ràng là không có sự lựa chọn nào khác: Muốn giúp các em được nên người hơn sau này, phải kiên nhẫn rất nhiều trong tiến trình dạy dỗ sắp tới.

Những đứa trẻ vô tội này rồi sẽ lớn lên, lập gia đình và trở thành Cha Mẹ. Những gì các em tiếp thụ lúc tuổi thơ và thời niên thiếu sẽ là hành trang, chất liệu con người em sau đó.

Do vậy, nhu cầu giáo dục các em trở nên nặng nề và quan trọng hơn dự liệu ban đầu của Hội.

***

Nói chung, những trở ngại ban đầu không phải là quá bất ngờ song mức độ các vấn đề đã nhiều và lớn hơn những dự liệu trước khi khai giảng.

Những vấn đề đó cũng có nhu cầu song song với việc dạy cho các em biết chữ. Giải quyết được những vấn đề khó khăn cơ bản đó thì việc giáo dục về văn hóa mới có điều kiện để tiến hành.

Hội đã xây dựng được bước tiến quan trọng đầu tiên. Trân trọng cảm ơn anh Y Deour và gia đình đã quyết chí tiến hành chương trình ý nghĩa này. 
Anh chị em thuộc Câu lạc bộ Hoa-Mai đã đóng góp cho bước đầu, và sẽ tiếp tục giới thiệu, vận động các anh chị em có lòng khác cùng tiếp tay trong thời gian tới.
Nhóm Chủ trương hy vọng sẽ nhận được sự tiếp trợ về mặt tinh thần và vật chất của những người có lòng và cùng chung sự quan tâm. Mỗi người một tay, chúng ta sẽ giúp cho các em nhỏ này có được một tương lai sáng sủa hơn là đi lượm ve chai, làm phu, làm thợ rẻ tiền cho người bản xứ. Tương lai của các em là ở “cái chữ”.

Chúng ta không thể cưu mang tất cả người kém may mắn nhưng chúng ta có thể giúp thay đổi cuộc đời của những đứa bé thơ này qua con đường giáo dục cơ bản.

Mong thay!

Nguyễn Công Bằng

Ngày 7 tháng 6 năm 2013
Viết từ thành phố Siem Reap, Cambodia.
Copyright (c) The ViDan Foundation, Inc 2014. All rights reserved.
Designed by olwebdesign.com